Nhập thông tin
  • Lỗi: Email không hợp lệ

Thông báo

Gửi bình luận thành công

Đóng
Thông báo

Gửi liên hệ thành công

Đóng
Đóng

Vua quan nhà Nguyễn xưa đón Tết thế nào?

Dưới triều Nguyễn, thời gian nghỉ Tết thường được quy định từ 28 tháng Chạp đến mùng 8 tháng Giêng năm sau.

Tết của vua quan nhà Nguyễn ra sao?

Theo Báo Tuổi Trẻ, mộc bản triều Nguyễn còn lưu giữ được cho đến ngày nay có ghi chép lại việc đón Tết của vua, quan, hoàng tộc xưa trong cung cấm. 

Dưới triều Nguyễn, Tết Nguyên đán được xem là lễ hội quan trọng nhất của dân tộc Việt Nam. Vào ngày mùng 1 tháng Chạp, vua sẽ ngự ở lầu Ngọ Môn để ban lịch năm mới do Khâm Thiên giám soạn thảo cho các bá quan. Người dân sẽ nhận lịch này ở địa phương.

Đội ngũ người hầu chuẩn bị cho một buổi yến tiệc trong Đại nội. (Ảnh: Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế cung cấp)

Thường dưới triều Nguyễn, thời gian nghỉ Tết Nguyên đán được quy định từ 28 tháng Chạp cho đến mùng 8 tháng Giêng năm sau. 

Vào ngày cuối cùng của năm cũ, nhà vua sẽ đến Thái miếu hoặc Thế miếu thực hiện lễ Cáp hưởng để mời vong linh các vị tiên đế, tổ tông đã khuất trở về hoàng cung ăn Tết. 

Sau lễ Cáp hưởng, nhà vua sẽ thực hiện lễ Tuế trừ với mong muốn rũ sạch những bụi bẩn, xui xẻo… của năm cũ để đón năm mới tốt đẹp.

Vào đêm 30 Tết, toàn kinh thành treo pháo lên cây nêu để đốt vào thời khắc giao thừa. Trong Đại nội, quan Hữu ty chuẩn bị thiết đại triều ở điện Thái Hòa và thiết thường triều ở điện Cần Chánh. 

Vua mang hoàng bào, ngự ở điện Thái Hòa. Chỉ có quan lại thuộc hàng nội thân mới được "thượng điện". Bá quan văn võ từ tam phẩm trở lên đứng ở thềm điện, từ tứ phẩm trở xuống chầu dưới sân rồng.

Theo quy định dưới triều Nguyễn, trong đêm giao thừa, các cửa ở lối đi trong Tử Cấm thành và Tả Đoan, Hữu Đoan của Đại nội sẽ được mở toang. Trong sân điện Thái Hòa vào đêm giao thừa, mỗi khắc sẽ cho nổ 20 tiếng ống lệnh, suốt đêm đủ 1.000 tiếng giòn tan.

Vào ngày đầu năm mới, nhà vua sẽ đi đến cung của hoàng thái hậu để dâng lễ chúc Tết. Sau đó, vua sẽ về các điện trong Đại nội để hoàng thân, quan triều đình làm lễ chúc mừng năm mới và ban tiệc. Ngoài việc dự yến, các quan viên còn được thưởng thêm tiền, tùy theo chức trách của từng người mà tiền thưởng cũng có phần khác nhau.

Ngoài thưởng yến và tiền, nhiều vị vua còn có các cách thưởng Tết khác nhau trong ngày đầu năm mới. Theo mộc bản, vua Thiệu Trị ngự ở điện Đông Các, cho triệu đình thần vào hầu, ban nước trà uống, rồi đưa cho xem bốn chữ "Trung, cần, phúc, thọ" do vua viết. Rồi hạ lệnh giao khắc in để ban cấp. Còn vua Tự Đức tặng thơ cho các quan đại thần vào năm 1848.

Mộc bản ghi lại sự kiện vào ngày mùng 1 Tết, vua Tự Đức đi đến cung Từ Thọ chúc Tết thái hậu, sau đó vua trở về điện Văn Minh nhận lễ lạy chúc mừng năm mới của các bá quan. (Ảnh: Tuổi Trẻ)

Với dân chúng, dịp Tết Nguyên đán là lúc để nhà vua bày tỏ sự quan tâm đến với đời sống của người dân, quân lính… 

Thông thường, vua triều Nguyễn thường ban chiếu giảm tô thuế, giảm tội hoặc ân xá cho tù nhân, phục hồi chức vụ cho quan lại bị giáng cấp, thưởng tiền cho những người có công trạng, lính đồn biên viễn... Vào ngày mùng 3 Tết, trong Đại nội sẽ thực hiện lễ hóa vàng.

Vua Nguyễn du xuân thế nào?

Việc du xuân đầu năm mới vốn là truyền thống của người Việt. Thường các vua Nguyễn bắt đầu du xuân từ ngày 5/1 âm lịch. Tuy nhiên, việc này không ghi thành điển lễ. Chỉ từ triều Đồng Khánh về sau, các vua nhà Nguyễn mới có lệ du xuân ngay trong ngày mùng 1 Tết.

Tiến sĩ Phan Thanh Hải - Giám đốc Sở Văn hóa Thể thao tỉnh Thừa Thiên - Huế cho hay, triều vua Đồng Khánh, sau lễ khánh hạ ở điện Thái Hòa và điện Cần Chánh, đúng vào giờ tốt trong ngày (đã được Khâm Thiên Giám xem quẻ chọn giờ trước), nhà vua lên kiệu cho quân lính cáng đi. Các quan văn, võ cùng một số lính tráng mang gươm giáo, cờ quạt theo sau hộ giá.

Cứ vậy, vua được cáng đi một vòng quanh kinh thành và một vài nơi vua thích để vừa du xuân lại vừa xem dân tình ăn Tết ra sao.

Ngoài ra, vào mùa Xuân, triều đình nhà Nguyễn cũng tổ chức nhiều lễ hội quan trọng, có thể kể ra một vài lễ hội như:

Lễ tế Nam Giao: Là lễ tế quan trọng nhất, đứng đầu trong bậc Đại tự. Không gian tổ chức lễ tế diễn ra từ Hoàng cung đến tận đàn Nam Giao ở ngoại ô phía nam Kinh thành và kéo dài trong suốt mấy ngày liền.

Tế Nam giao dưới thời Nguyễn là hình thức hợp tế (tế tự chung cả Trời-Đất và các vị thần linh) và thường được tổ chức vào tháng trọng xuân hàng năm (tháng 2 âm lịch, nhưng từ năm 1839-1848 lại tế vào tháng quý xuân - tháng 3 âm lịch).

Từ thời Thành Thái trở đi, lễ tế Nam Giao được quy định 3 năm tổ chức một lần do quá tốn kém. Lực lượng tham gia lễ tế Nam Giao thường gồm hàng ngàn người cộng với sự tham gia đông đảo của nhân dân các làng xã dọc theo tuyến đường từ Kinh thành lên đàn tế.

Lễ tế Nam Giao thời nhà Nguyễn xưa hiện đã được phục dựng.

Lễ tế Xã Tắc: Cùng với lễ tế Nam Giao, tế Xã Tắc là một trong những tế lễ lớn và có tầm quan trọng trong việc cai trị nước của nền quân chủ phong kiến. Đây là nghi lễ vừa mang ý nghĩa tôn giáo tín ngưỡng vừa mang màu sắc chính trị. Việc cho lập đàn Xã Tắc và tế Xã Tắc ở kinh đô và hầu khắp các địa phương trong nước là để đáp ứng nhu cầu quan trọng, một nhu cầu về mặt tinh thần không thể thiếu của toàn dân thời bấy giờ.

Lễ tế Xã Tắc được tổ chức mỗi năm hai lần vào mùa xuân và mùa thu (thực ra, trừ lễ tế Nam Giao, còn từ lễ tế Xã Tắc đến các lễ tế ở bậc Trung tự và Quần tự đều được tổ chức 2 lần vào tháng 2 và tháng 8 âm lịch ). Khi tổ chức tế, có khi nhà vua đích thân làm chủ tế, cũng có khi cử quan khâm mạng đại thần thay thế.

Lễ cày ruộng Tịch Điền: Đây là lễ cày ruộng đầu năm mới của nhà vua, được tổ chức tại ruộng Tịch Điền ở Kinh đô (phía bắc bên trong Kinh thành, gần đàn Tiên Nông). Lễ cày ruộng được tổ chức cũng vào tháng 2 âm lịch.

Nhà vua cùng các quan đến khu ruộng Tịch Điền. Trước đó, từ sáng sớm, quan Phủ doãn phủ Thừa Thiên phải đến tế tại đàn Tiên Nông.

Sau khi nhà vua đích thân cày 6 luống đầu tiên, ngài sẽ ra ngự tại điện Quan Canh (trong vườn Thường Mậu) để xem các quan cày ruộng.

Lần lượt các quan theo thứ bậc sẽ cày các luống tiếp theo. Đây là nghi lễ đầu năm của triều đình nhằm khuyến khích toàn thể nhân dân chăm lo việc nông tang.

Có thể nói đây là lễ hội cung đình rất giàu chất nhân văn, xuất phát từ các yêu cầu thực tế của một đất nước nông nghiệp như nước ta. Đáng tiếc là đến nay, khu ruộng Tịch Điền, vườn Thường Mậu và đàn Tiên Nông đều không còn!

NGUYỄN VƯƠNG (tổng hợp)

Tin mới